Diễn biến Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai

Chiến trường châu Âu

Chiến trường châu Âu 1939-1940

Vào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, lấy cớ bảo vệ kiều dân gốc Đức và phản công lại vụ phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức của lính Ba Lan (vụ việc này về sau được chứng minh là do quân Đức dựng lên). Đức xâm lược Ba Lan khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan, tuy nhiên thực tế 2 nước này đã không có hành động gì trợ giúp cho Ba Lan (Anh, Pháp hy vọng sau khi Đức chiếm xong Ba Lan thì sẽ ngừng lại hoặc quay sang tấn công Liên Xô).

Đức đã huy động 56 sư đoàn, tiến theo 3 đường vào Ba Lan từ biên phía bắc, phía đông và phía tây và mục tiêu của cả ba hướng tấn công này đều là thủ đô Warsaw của Ba Lan. Trong khi đó, không quân Đức ra sức oanh tạc phá hủy các cơ sở hạ tầng, trục đường giao thông, trung tâm chỉ huy và nhất là các phi trường Ba Lan.

Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới Ba LanBộ binh Ba LanMolotov ký hiệp ước với nước Đức, Ribbentrop và Stalin đứng sauTướng Heinz Guderian (Đức Quốc xã, giữa) và đại tá Semyon Krivoshein (Liên Xô, phải) trong cuộc duyệt binh chungLính Anh đóng ở Pháp đang chơi bóng

Nhờ ưu thế vượt trội về quân lực, vũ khí và phương tiện kỹ thuật nên quân đội Đức đã dễ dàng chọc thủng phòng tuyến biên giới Ba Lan ở nhiều nơi. Chỉ trong 1 tuần đầu của cuộc chiến, quân Đức đã tiến được 225 km. Quân Ba Lan choáng váng trước tốc độ tiến công của chiến tranh chớp nhoáng do Đức thực hiện. Ngày 13 tháng 9, thủ đô Ba Lan bị vây hãm. Chính phủ Ba Lan (đứng đầu là tổng thống Ignacy Mościcki) và bộ chỉ huy quân sự tối cao đã rời bỏ thủ đô ngay trong ngày đầu tiên của cuộc chiến và chạy về phía đông nam, sau đó lên máy bay sang Anh tị nạn.

Vào ngày 17 tháng 9, Hồng quân Liên Xô cũng tấn công Ba Lan từ phía đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan chuyển quân sang phía tây chống Đức, với lí do là để bảo vệ kiều dân gốc Nga và thu hồi lại những vùng đất đã bị Ba Lan chiếm đóng của họ trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921). Sự xâm nhập từ 2 nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải chạy khỏi đất nước, một phần quân đội Ba Lan rút theo và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6 tháng 10, lực lượng quân đội Ba Lan còn lại hoàn toàn đầu hàng. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát nằm dưới quản lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi các vùng phía đông (từ năm 1772 đến trước Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921) thuộc lãnh thổ Đế chế Nga, được gọi là Tây Belarus và Tây Ucraina) được hoàn trả cho Liên Xô. Khoản 22.000 tù binh chiến tranh Ba Lan sau đó bị Liên Xô xử bắn ở Katyn. Cuộc tấn công của Liên Xô, mà nhân dân Liên Xô, Ukraina và Belarus gọi là "chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina", đã dẫn đến việc tái hợp nhất nửa phía Tây Ukraina và Tây Byelorussia (sau khi Ba Lan chiếm vào năm 1921), và hiện nay được coi là 1 ngày lễ chính ở 2 nước này[62]

Sự sụp đổ nhanh chóng của Ba Lan có lý do khách quan là sự vượt trội về công nghệ quân sự của Đức, còn lý do chủ quan là vì họ quá tin vào lời hứa của Anh-Pháp sẽ nhanh chóng tiếp viện cho Ba Lan, nhưng thực tế viện trợ đã không đến. Người Ba Lan cho rằng họ đã bị đồng minh của họ bỏ rơi, nhiều người cũng tin rằng Anh và Pháp đã phản bội Ba Lan vì khi Đức tấn công Ba Lan, quân Anh-Pháp có tới 110 sư đoàn đang áp sát biên giới Đức so với chỉ 30 sư đoàn của Đức, họ cho rằng nếu Anh-Pháp tấn công thì sẽ nhanh chóng buộc Đức phải rút quân về nước. Tư lệnh kỵ binh Đức Quốc xã Siegfried Westphal từng nói, nếu quân Pháp tấn công trong tháng 9 năm 1939 vào chiến tuyến Đức thì họ "chỉ có thể cầm cự được một hoặc hai tuần". Riêng ở đồng bằng Saar tháng 9 năm 1939, binh lực Pháp có 40 sư đoàn so với 22 của Đức, phía Đức không có xe tăng và chỉ có chưa đầy 100 khẩu pháo các cỡ, quá yếu ớt khi so sánh với trang bị của Pháp (1 sư đoàn thiết giáp, ba sư đoàn cơ giới, 78 trung đoàn pháo binh và 40 tiểu đoàn xe tăng). Tướng Đức Alfred Jodl từng nói: "Chúng tôi (Đức) đã không sụp đổ trong năm 1939 chỉ do một thực tế là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn của Anh và Pháp ở phương Tây đã hoàn toàn không có bất cứ hoạt động gì khi đối mặt với 23 sư đoàn Đức"[63].

Những ý kiến khác thì cho rằng Anh và Pháp đã không thể làm gì nhiều để giúp Ba Lan vào thời điểm đó. Quá trình huy động binh lính ở cả hai nước đã diễn ra quá chậm, chưa kể đến việc thiếu thốn các phương tiện vận chuyển, máy bay chiến đấu... Ngoài ra Anh và Pháp cũng đã bị bất ngờ bởi sức tấn công hiệu quả của người Đức, họ cho rằng Ba Lan có thể cầm cự ít nhất là đến cuối năm, đủ thời gian cho họ có thể đem quân đến tiếp viện, nhưng trên thực tế người Ba Lan đã sụp đổ quá sớm. Một lí do khác cũng được đưa ra là việc Stalin đem quân tấn công Ba Lan nằm ngoài dự tính của chính phủ Anh-Pháp, do đó họ không muốn tham chiến vội bởi họ lo sợ sẽ phải đối đầu với cả lực lượng của Đức lẫn của Liên Xô. Tư tưởng "chủ hòa" lúc ấy vẫn chiếm ưu thế trong nội bộ chính phủ 2 nước, và những người đứng đầu chính phủ của cả Anh và Pháp vẫn chủ trương giải quyết vấn đề với nước Đức Quốc xã thông qua các biện pháp ngoại giao hơn là dùng vũ lực. Do chính phủ Anh-Pháp tin rằng hòa bình vẫn sẽ còn kéo dài nên không ra lệnh tác chiến, quân đội 2 nước đã không ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Tại tuyến phía Tây do quân Anh - Pháp đóng có ưu thế tuyệt đối, nhưng lại án binh bất động. Pháo binh quân Anh-Pháp ở bên này sông Rhine vẫn im lặng nhìn những đoàn xe quân Đức vận chuyển vũ khí qua lại ở bên kia sông. Các trạm đóng quân dọc biên giới của Pháp ở phía Tây vẫn án binh bất động, binh sĩ chơi bài, đá bóng và còn có các hoạt động văn hóa, thể thao để giết thời gian. Thủ tướng Pháp thậm chí còn phát cho binh lính một vạn quả bóng để chơi. Cuộc “chiến tranh kỳ quái” cứ tiếp diễn (xem Cuộc chiến Cuội).

Mặc dù chiến sự trên đất liền giai đoạn này đã diễn ra im ắng, trên biển đã cho thấy tình hình ngược lại. Nước Anh đã bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức, nhằm phá hủy nền kinh tế và nỗ lực gây chiến của đất nước này[64]. Biện pháp này tỏ ra không hiệu quả, bởi khác với Thế chiến 1, lần này Đức có thể kiếm được tài nguyên từ các vùng mới bị chiếm đóng. Đức cũng đáp trả lại bằng cách sử dụng hạm đội tàu ngầm U-boat tấn công các tàu buôn và tàu chiến của Anh và Pháp, kết quả dẫn đến Trận chiến Đại Tây Dương giữa hai phe mà đã kéo dài đến tận khi kết thúc cuộc chiến tranh.

Con đường Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích trong mùa đông khắc nghiệtBộ binh Đức tấn công tại một ngôi làng đang cháy của Na Uy

Ngay sau chiến dịch Ba Lan, để củng cố biên giới phía Tây chuẩn bị cho chiến tranh với Đức, Liên Xô bắt đầu tiến quân vào các nước cộng hòa gần biển Baltic. Tại 3 nước Baltic, quân đội Liên Xô không gặp kháng cự đáng kể, nhưng Phần Lan thì phản kháng quyết liệt, dẫn đến Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan vào ngày 30 tháng 11 cho đến tháng 3 năm 1940. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh Tây phương đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, với việc hai phía tuyên chiến với nhau nhưng không bên nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi Đức mở Chiến dịch Weserübung xâm lược Đan MạchNa Uy nhằm bảo vệ con đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức [65] Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng quân Đức chỉ sau vài giờ chiến đấu. Ở Na Uy thì quân Đức gặp nhiều khó khăn hơn khi Anh điều một lực lượng lớn tới đây trợ giúp Na Uy, và phải mất hai tháng để Đức chiếm đóng hoàn toàn được quốc gia trung lập này.[66] Thất bại trong việc cứu Na Uy khiến cho Thủ tướng Anh Neville Chamberlain bị thay thế bởi Winston Churchill vào ngày 10 tháng 5 năm 1940[67].

Chiến trường Tây Âu

Sau khi thôn tính các nước Bắc Âu, Hitler phát động chiến dịch tấn công nước Pháp, mở đầu là Kế hoạch Manstein xâm chiếm các nước Hà Lan, BỉLuxembourg. Những cuộc tấn công vào ba nước này đã diễn ra rất nhanh chóng và Đức giành thắng lợi vang dội. Người Đức đã huy động vào mặt trận này 3.350.000 quân, nhiều hơn bất kỳ mặt trận nào khác cho tới thời điểm đó. Phía liên quân Anh-Pháp có 3,3 triệu quân, lực lượng 2 bên khá tương đương. Tuy nhiên, các chỉ huy Anh-Pháp vẫn duy trì lối tư duy về chiến tranh chiến hào của thế chiến thứ nhất, do vậy họ tập trung lực lượng về phòng tuyến Maginot với dự định dựa vào hệ thống công sự vững chắc để chặn đứng quân Đức tại đây, sau khi Đức thiệt hại nặng thì sẽ chuyển sang phản công, đúng như diễn biến trong Thế chiến thứ nhất.

Đức tiến vào Bỉ và Miền Bắc nước Pháp, từ 10 tháng 5 đến 4 tháng 6 năm 1940, quét qua phòng tuyến Maginot

Thực tế cho thấy đây là một sai lầm chiến lược rất tai hại của liên quân Anh-Pháp. Quân Đức với học thuyết chiến tranh chớp nhoáng đã sử dụng lực lượng thiết giáp đi vòng qua phòng tuyến Maginot, thọc sâu vào hậu phương của Pháp và bao vây luôn khối quân Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến này. Do quân chủ lực Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến Maginot nên quân Đức tiến nhanh vào lãnh thổ Pháp mà không găp kháng cự đáng kể, các cuộc phản công của Anh-Pháp nhằm chặn đứng quân Đức đều thất bại nhanh chóng. Chính phủ Pháp bỏ chạy khỏi thủ đô Paris, điều này lại càng làm tăng thêm sự hoảng loạn đối với toàn quân đội Pháp.

Quân Đức diễu hành chiến thắng tại Khải Hoàn Môn, Paris ngày 14 tháng 6

Với chiến lược khôn khéo cộng với những sai lầm của Anh-Pháp, quân Đức nhanh chóng đánh bại đối phương. Trong vòng một tháng, chính phủ Pháp tuyên bố đầu hàng, trong khi lực lượng Anh phải lên tàu chạy khỏi nước Pháp. Ngày 10 tháng 6, Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Chỉ trong hơn 1 tháng, quân Đức đã tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh 2,2 triệu quân Anh và Pháp. Ngoài ra, 340.000 quân Anh-Pháp bị bao vây ở Dunkirk, đã phải vứt bỏ lại vũ khí, lên tàu bỏ chạy khỏi Pháp về Anh. Để có thắng lợi rất lớn này, quân Đức chỉ bị thiệt hại 156.000 người (trong đó 46.000 tử trận và 110.000 bị thương). Đây là một trong những chiến dịch quân sự thắng lợi lớn nhất trong thế kỷ 20.

Ngày 14 tháng 6, quân Đức chiếm được thủ đô Paris của Pháp. Đến cuối tháng 6, chính phủ Pháp đã đầu hàng theo Hiệp định Compiègne lần thứ hai, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết lãnh thổ, Ý cũng được hưởng một phần, 1/4 lãnh thổ còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành dưới sự khống chế của Đức. Sau khi chiến thắng, Đức cũng chiếm được rất nhiều nhà máy và đội ngũ công nhân lành nghề của Pháp, tiềm lực chiến tranh của Đức tăng rất nhiều.

Sau khi chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, tướng Pháp Charles de Gaulle chạy sang London và tập hợp tổ chức có tên gọi là "Nước Pháp Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi tất cả người Pháp ở trong nước cũng như ở hải ngoại tiếp tục cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã.

Chiến tranh giữa Đức và Anh

Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn Anh đơn độc chống lại Đức. Lục quân Đức rất mạnh nhưng bị ngăn cách với nước Anh bởi eo biển nên không thể tấn công được. Ngày 10 tháng 5 năm 1940, Anh xâm chiếm IcelandĐảo Faroe để tránh việc Đức được đặt căn cứ quân sự tại đây. Để tránh việc hạm đội mạnh của Pháp được Hitler trưng dụng để tấn công Anh, ngày 3 tháng 7 năm 1940, Không quân và hải Quân Anh đã dội bom vào hạm đội Pháp (vốn là đồng minh của họ chỉ 2 tháng trước đó, nay thuộc về Chính phủ Vichy bù nhìn của Đức) neo đậu tại cảng Mers-el-KebirAlgérie, đánh chìm nhiều tàu và khiến hàng ngàn thủy thủ Pháp thương vong. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm, nay có thể sử dụng các cảng tại Pháp, và Hải quân Hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được Đức dùng để tiêu diệt các đoàn tàu vận tải đưa hàng hóa về Anh theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh khi Đức dùng Không quân của họ để tiêu diệt Không quân Hoàng gia Anh, qua đó tận dụng ưu thế không gian để thực hiện Chiến dịch Sư tử biển nhằm đổ bộ lên nước Anh. Cuộc chiến đấu trên không tại Anh Quốc giữa hai lực lượng Luftwaffe của ĐứcRAF của Anh hay còn được biết đến với cái tên Trận chiến nước Anh là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên được thực hiện hoàn toàn bằng lực lượng không quân.[68]

Trước đó, chưa bao giờ có cuộc oanh tạc và đụng độ trên không lâu dài và ác liệt như thế. Sau gần 4 tháng, không quân 2 bên đều bị thiệt hại lớn (Anh mất 1.744 máy bay, Đức mất 1.977 máy bay[69]). Không quân Đức sau cùng đã phải dừng chiến dịch trước sức chiến đấu của không quân Anh và sức chịu đựng dũng cảm của nhân dân Anh. Ở trên biển, kết quả khả quan hơn cho Đức, đội tàu ngầm Đức đánh chìm hàng ngàn tàu chở hàng của Anh, khiến lương thực và nguyên liệu nhập khẩu của Anh bị sụt giảm nghiêm trọng, nhưng chưa đủ để Anh phải đầu hàng. Nền Đệ tam Đế chế Đức đã không thể hoàn thành được mục tiêu của mình: nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu dù trong tình trạng suy sụp về rất nhiều mặt.

Hình ảnh thấy đường đạn từ một chiếc Supermarine Spitfire Mark I thuộc đội bay số 609 của RAF, do J.H.G. McArthur lái, bắn trúng mạn phải một máy bay Heinkel He 111, ngày 25 tháng 9 năm 1940

Cho đến lúc này, thái độ của Mỹ vẫn là đứng ngoài cuộc và không muốn can dự vào chiến tranh. Nước Anh, với việc Pháp đã sụp đổ, đã quay sang cầu cứu sự giúp đỡ của Mỹ. Hoa Kỳ cho Anh mượn (trên thực tế là bán) 50 chiếc khu trục hạm cũ kỹ cho Anh với điều kiện Anh sẽ cho Hoa Kỳ thuê trong 99 năm các căn cứ tại Newfoundland, BermudaWest Indies. Giao kèo bán tàu này rất có lợi cho Mỹ bởi các tàu khu trục này không có mấy giá trị đối với họ, trong khi đổi lại họ lại có được các căn cứ quân sự quan trọng trên Đại Tây Dương nhằm mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, đồng thời ngăn chăn được khả năng Đức sẽ chiếm các căn cứ này làm bàn đạp để tấn công lãnh thổ của Hoa Kỳ nếu như chẳng may Anh đầu hàng Đức.[70]

Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố sẽ giúp AnhLiên Xô về trang bị nhưng nước Mỹ sẽ không tham chiến, ngay cả các cố vấn chính phủ còn cho rằng Anh sẽ thua Đức và tốt nhất là chỉ nên bán vũ khí cho Anh chứ không nên tham chiến. Đạo luật lend-lease (cho vay - cho thuê) thông qua tháng 11 năm 1941 cho phép Tổng thống Roosevelt cung cấp mọi tài sản cần thiết cho chiến tranh, từ thực phẩm, vũ khí tới các dịch vụ khác cho các nước đang tham chiến nếu thấy có lợi cho an ninh của Hoa Kỳ, đi kèm theo là những đòi hỏi về những khoản lợi kinh tế - chính trị như việc cho Mỹ thuê các hải cảng hoặc các căn cứ quân sự. Việc này trên thực tế đã vi phạm quy tắc trung lập của Hoa Kỳ, nhưng khi chứng kiến chiến tranh ngày một leo thang ở châu Âu, đa số dân chúng trong nước đã ủng hộ Đạo luật dù họ phản đối việc đưa quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến [71].

Tháng 6 năm 1941, khi Đức tấn công Liên Xô, Phó Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã tuyên bố rằng:

Nếu chúng ta thấy Đức chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Nga, và nếu Nga chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Đức, và theo cách đó cứ để họ giết nhau càng nhiều càng tốt, mặc dù tôi không muốn nhìn thấy Hitler chiến thắng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.[72]

Chiến tranh Đại Tây Dương

Trận chiến Đại Tây Dương được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù có sử gia cho rằng đây không phải là một trận duy nhất mà là gồm một chuỗi nhiều trận hải chiến hay cuộc hành quân trên biển. Cuộc chiến bắt đầu ngày 3 tháng 9 năm 1939 cho đến khi Đức Quốc xã đầu hàng năm 1945. Cao điểm của trận chiến là những năm 1940 - 1943 khi tàu ngầm (U-Boat) và các chiến hạm của hải quân Đức (Kriegsmarine) tấn công và đánh chìm nhiều đoàn tàu buôn và chiến hạm của Đồng Minh.

Những đoàn tàu tiếp tế này tới từ Hoa Kỳ theo phía nam Đại Tây Dương chở tiếp vận và vũ khí đến Anh QuốcLiên Xô, được hộ tống bởi hải quânkhông quân Anh và Canada. Bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 1941 có thêm chiến hạm Hoa Kỳ tham gia hộ tống các đoàn tàu này. Hải quân Ý theo phe Đức tham gia trận đánh từ ngày 10 tháng 6 năm 1940.

Trận chiến này (từ tiếng Anh "Battle of the Atlantic" do thủ tướng Anh Winston Churchill nêu lên năm 1941) lan rộng khắp một vùng hải dương rộng lớn, kéo dài 6 năm, với hàng nghìn thuyền bè tham gia, hơn 100 đoàn tàu bị tấn công và đến cả ngàn trận đánh một chọi một giữa hai chiến hạm. Chiến thuật trên biển thay đổi liên tục, lúc bên này thắng thế, lúc bên kia thắng thế.

Lính Hải quân Anh trên một chiếc tàu khu trục hộ tống một đoàn tàu tiếp tế lớn, đang nhìn xung quanh để canh chừng tàu ngầm tấn công của Đức trên biển Đại Tây Dương, tháng 10 năm 1941

Kế hoạch Z của hải quân Đức trong chiến trường Đại Tây Dương gồm thiết bị lực lượng hải quân mạnh đủ để tiêu diệt tàu hộ tống đồng thời phá hủy mọi tiếp vận đến Anh. Kế hoạch không thành công vì Đức chưa kịp xây dựng đủ sức mạnh hải quân thì chiến tranh đã bùng nổ. Kết quả là số tàu Anh bị Đức phá hủy không cao so với hao tổn của U-boat, tàu chiến và máy bay. Tuy vậy cuộc chặn đánh các đoàn tàu buôn trên Đại Tây Dương cũng gây nhiều chật vật, khó khăn cho Anh, và làm mức nhập cảng vào Anh giảm xuống rất nhiều.

Sau những tổn thất thảm hại trong năm 1940, hải quân Anh buộc phải chấn chỉnh lại chiến lược chống quân Đức. Một trong những thay đổi quan trọng là thiết lập những đội tàu chiến hộ tống thường xuyên cho các đoàn tàu hàng tiếp vận, điều hợp đội hình vững chắc hiệu quả hơn và cố gắng bảo vệ tính mạng của thủy thủ. Những chiếc khu trục hạm phế thải của Mỹ lúc này cũng bắt đầu tham gia tàu chiến của Anh và Canada trong các cuộc hộ tống. Ngoài ra còn có hỗ trợ từ các đoàn chiến thuyền nhỏ của Lực lượng Pháp tự do, Hà Lan, Na Uy. Dân chúng Hoa Kỳ vào đầu năm 1941 cũng bắt đầu lên tiếng ủng hộ Anh trong công cuộc đấu tranh chống lại Đức Quốc xã.

Tháng 2 năm 1941, bộ tư lệnh hải quân Anh dời căn cứ từ Plymouth đến Liverpool để tiện liên lạc với các cuộc hành quân trên Đại Tây Dương. Không quân Anh cũng bắt đầu được sử dụng trong công tác hộ tống và tấn công phản kích quân lực Đức. Từ tháng 4, hải quân Anh được quyền chỉ huy các phi đội tuần phòng bờ biển. Về mặt kỹ thuật, các đài radar trên tàu chiến và máy bay Anh được phát triển để có thể phát hiện khi tàu ngầm địch đã trồi lên mặt nước. Những cải tiến của hải quân Anh đem lại thành quả vào mùa xuân năm 1941. Thiệt hại của tàu ngầm Đức tăng lên nhanh chóng, hải quân Đức thiệt mất ba thuyền trưởng lừng danh Kretschmer, Prien và Schepke.

Tuy trên danh nghĩa vẫn còn trung lập, Hoa Kỳ càng ngày càng tham gia nhiều hơn vào cuộc tranh chấp giữa Anh và Đức. Tháng 4 năm 1941, tổng thống Roosevelt cho nới dài Khu vực an ninh xuyên Mỹ đến tận Iceland. Hòn đảo này trước đó đã bị Anh lấn chiếm để tạo căn cứ phòng vệ trước tình hình Đức chiếm Đan Mạch. Quân Hoa Kỳ được Anh khuyến khích ra đóng quân trên đảo này để hỗ trợ quân đội Anh. Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu tham gia hộ tống tàu hàng của Anh và cũng nhiều lần đụng độ với U-boat của Đức. Khi Hoa Kỳ chính thức tuyên chiến với Đức, hải quân của ba nước Anh-Cannada-Hoa Kỳ phối hợp tạo thành Lực lượng Hộ tống Đại dương.

Chiếc tàu ngầm U-848 của Hải quân Đức bị tấn công bởi một máy bay thuộc Hải quân Hoa Kỳ

Người Đức thất bại trong việc ngăn chặn dòng cung cấp chiến lược cho Anh. Thất bại này dẫn đến việc xây dựng quân đội và nhu yếu phẩm cần thiết cho trận Normandie. Thất bại của chiếc U-boat là tiền thân cần thiết cho sự chuẩn bị của quân đội Đồng minh và nhu yếu phẩm để đảm bảo cho việc quân Mỹ-Anh có thể đổ bộ lên mặt trận Tây Âu. Dù bị đội tàu ngầm Đức gây thiệt hại nặng, nhưng Đồng Minh dần dần chiếm được thế thượng phong và đánh đuổi được chiến hạm địch ra khỏi chiến trường vào cuối năm 1942, và phá được chiến lược tàu ngầm và tháng 3 - 5 năm 1943. Hải quân Đức cố gắng trang bị thêm tàu ngầm hiện đại hơn vào năm 1945 nhưng đã quá trễ, không phục hồi được cục diện của chiến trường Đại Tây Dương.

Chiến thắng đã đạt được với chi phí rất lớn: từ năm 1939 đến năm 1945, 3.500 tàu buôn của quân Đồng minh (tổng cộng đã mất 14,5 triệu tấn hàng tiếp tế), 175 tàu chiến của quân Đồng minh đã bị đánh chìm và khoảng 72.200 lính hải quân và thủy thủ tàu buôn thuộc phe Đồng minh đã mất mạng. Phần lớn các tàu chiến của quân Đồng minh bị mất ở Đại Tây Dương và các bờ biển gần là các tàu chiến nhỏ trung bình khoảng 1.000 tấn như tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu đột kích, tàu ngầm, tàu hộ tống hoặc tàu vận tải. Người Đức đã mất 783 chiếc U-boat và khoảng 30.000 thủy thủ thiệt mạng, 3/4 trong số 40 đội tàu U-40 của Đức. Thiệt hại cho hạm đội mặt nước của Đức cũng rất đáng kể, với 4 tàu chiến, 9 tàu tuần dương, 7 tàu đột kích và 27 tàu khu trục bị đánh chìm.

Chiến trường Địa Trung Hải

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, Đức, ItaliaNhật đã ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Berlin. Hiệp ước này trước hết nhằm chống Liên Xô, nhưng còn chống cả Anh, . Hiệp ước đề ra không úp mở việc phân chia thế giới: Đức, Italiachâu Âuchâu Phi; Nhật ở vùng Viễn Đông (tức châu Á).

Đức cũng đã lợi dụng những mâu thuẫn giữa các nước vùng Balkan để lôi kéo các nước này làm chư hầu của mình. Ở Hội nghị Viên tháng 8 năm 1940, ĐứcItalia đã yêu cầu Romania cắt vùng Transivalnia giao cho Hungaria và hứa với Rumani sẽ đền bù cho nước này bằng đất đai chiếm được của Liên Xô. Đức lại giúp lực lượng thân Đức ở Rumani làm chính biến, đưa những phần tử chống Liên Xô lên nắm chính quyền, do tướng Antonesscu cầm đầu. Với sự thỏa thuận của Antonesscu, ngày 7 tháng 10 năm 1940, quân đội Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hungari, Rumani và Slovakia đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin (tháng 11 năm 1940). Tháng 3 năm 1941, chính phủ Bulgaria cũng tham gia hiệp ước Berlin và để cho quân đội Đức kéo vào nước mình, đồng thời cam kết góp quân cùng Đức tấn công Liên Xô.

Mussolini tỏ ra ghen tị với những thành công của Hitler ở mặt trận phía Tây, cho nên trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh, Ý đã mở cuộc tấn công Hy Lạp vào ngày 28 tháng 10 năm 1940 [73]. Cuộc tấn công này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng những đánh lui Ý trở lại Albania, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ.

Trong khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính vào ngày 27 tháng 3 năm 1941. Người Nam Tư trục xuất chính quyền thân Đức đã ký Hiệp ước Ba Bên chỉ ba ngày trước, đồng thời ký hiệp ước thân thiện và không xâm phạm với Liên Xô ngày 5 tháng 4 năm 1941. Trước tình hình đó. Hitler phải ra lệnh hoãn việc thực hiện kế hoạch Barbarossa xâm chiếm Liên Xô và quyết định đè bẹp Nam TưHy Lạp trước. Kế hoạch được đặt ra và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp vào ngày 6 tháng 4. Không quân Đức dội bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính phủ Nam Tư bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày đó, quân Đức cũng mở cuộc tấn công vào Hy Lạp. Quân đội Hy Lạp phải đầu hàng, quân đội Anh đóng ở Hy Lạp cũng bị đánh bật và phải chạy ra biển sau trận đánh tại trận Crete. Mặc dù chiến thắng của quân Đức tại Balkan đã diễn ra cực kì chóng vánh, họ vẫn phải đối mặt với phong trào du kích của các lực lượng yêu nước tại đây chống lại ách cai trị của Phát xít. Phong trào du kích diễn ra mạnh mẽ nhất ở Nam Tư, đã kéo dài liên tục kể từ thời điểm Đức chiếm đóng cho đến tận khi Liên Xô giải phóng Đông Âu vào năm 1944.

Như vậy, chỉ sau 1 năm, Đức có thêm 5 nước chư hầu ở khu vực BalkanĐịa Trung Hải mà gần như không cần phải nổ súng, lực lượng phe Đức được tăng cường thêm gần 1 triệu quân từ các nước này. Không chỉ vậy, Đức còn có thêm nhiều mỏ tài nguyên tại các nước này (đặc biệt là những mỏ dầuRomania). Hitler cho rằng các điều kiện để tấn công Liên Xô đã chín muồi.

Mở màn chiến dịch Bắc Phi

Tướng Erwin Rommel và Quân đoàn Phi Châu ở Bắc Phi
Bài chi tiết: Mặt trận Bắc Phi

Từ tháng 4 đến tháng 6 1940, tại Châu Âu, Đức Quốc xã lần lượt đánh bại và chiếm được Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, BỉPháp, từng bước làm chủ châu Âu. Ngày 10 tháng 6 1940, lợi dụng thắng lợi của Đức, Ý tuyên chiến với Pháp và có ý định chiếm các thuộc địa của Anh ở Ai Cập và Đông Phi khi quân Anh lúc này cũng bị thất bại thảm hại tại Pháp qua cuộc rút lui tại Dunkerque. Do đó Ý đã chia quân làm 2 đường tấn công Bắc và Đông Phi, mặt trận Bắc Phi chính thức bùng nổ.

Vào tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somalia của Anh tại Đông Phi. Đến tháng 9 quân Ý tấn công Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đẩy Ý ra khỏi cả hai khu vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi thuộc ÝLibya.

Những chiếc xe tăng của quân đội Đức về quân đoàn Afrika tiến qua sa mạc Bắc Phi, 1941

Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đẩy khỏi toàn bộ Châu Phi, Đức gửi Quân đoàn Phi châu dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Libya để tăng viện cho đồng minh của mình vào tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã đánh các trận ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 19411942. Cùng với trận chiến này, Hải quân Hoàng gia AnhRegia Maria của Ý cũng đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại căn cứ quan trọng tại Malta.

Lúc đầu Đức chú trọng đến mặt trận Bắc Phi vì muốn chiếm kênh đào Suez và cắt đứt những đường giao thông chính của Anh với các thuộc địa. Với một sư đoàn thiết giáp Đức, một sư đoàn thiết giáp Ý và một sư đoàn bộ binh Ý, vào cuối tháng 3 năm 1941, quân Đức tiến công. Trong vòng 12 ngày, Đức chiếm được tỉnh Cyrenaica và tiến đến Bardia, đồng thời bao vây Tobruk, đuổi quân Anh chỉ còn cách biên giới Ai Cập vài km. Quân Anh bị thua liên tiếp, vị thế của Anh ở Ai Cập và Kênh đào Suez bị đe dọa, và vị thế ở Địa Trung Hải cũng bị nguy hiểm vì sự hiện diện của quân Đức tại Hy Lạp.

Quân Đức ở Bắc Phi thúc giục Hitler nên khai thác tình hình, cho tăng viện thêm để tổng tấn công ở Ai Cập và vùng Kênh đào Suez. Nhưng Hitler đã quyết định mọi nguồn lực phải dồn cho chiến dịch tiêu diệt Liên Xô. Hitler chỉ gửi đến Bắc Phi một phái bộ quân sự và chút ít vũ khí, ngoài ra không làm gì thêm. Hitler trả lời là chỉ xét đến mặt trận Bắc Phi sau khi đã đánh bại Liên Xô. Chiến sự sau đó đã diễn ra ở thế giằng co quyết liệt, cả hai bên đều tung ra những đợt tấn công nhằm kết liễu đối phương nhưng đều không đạt được kết quả.

Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào SyriaLiban, hai khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực này.

Mặt trận phía đông

Bài chi tiết: Chiến tranh Xô-Đức
Đức tấn công Liên Xô

Sau 5 năm, Đức đã thôn tính xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Hầu như toàn bộ Tây Âu và Trung Âu (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh) đã thuộc về Đức mà không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể. Tiếm lực công nghiệp quân sự của Đức cũng tăng thêm nhiều lần nhờ trưng dụng các mỏ tài nguyên, nhà máy công nghiệp, hàng chục triệu nhân công... tại các nước bị Đức chiếm đóng. Trong bối cảnh thuận lợi này, Đức Quốc xã quyết định tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm tiêu diệt Nhà nước Xô Viết, kẻ thù số l của phe Trục, đồng thời giành lấy những lãnh thổ và tài nguyên bao la của Liên Xô.

Bản đồ thể hiện chiến trường Châu Âu từ năm 1939-1941

Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong cuộc chiến tranh này xảy ra vào tháng 6 năm 1941, khi Đức bất ngờ cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ nhất trong lịch sử. Quân đội phát xít Đức và chư hầu huy động 190 sư đoàn (trong đó gồm 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước chư hầu (gồm Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp) với tổng quân số trên 5 triệu người (4.300.000 quân Đức và 750.000 quân các nước chư hầu), tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía Bắc đến bờ biển Đen phía nam[74]. Một số lượng khổng lồ phương tiện chiến tranh được triển khai gồm khoảng 5.000 xe tăngpháo tự hành, 3.400 xe thiết giáp, 600.000 xe cơ giới các loại, 47.000 pháo và súng cối, 4.940 máy bay các loại và khoảng 300 tàu chiến (trong đó có 105 tàu khu trục, 86 tàu ngầm các loại), với mục tiêu chiếm Moskva trước cuối năm. Chiến tranh Xô-Đức bắt đầu.

Hồng quân Liên Xô tiến ra mặt trận, Moscow 23/6/1941. Bảng bên trái ghi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta"

Để thực hiện kế hoạch Barbarossa, nước Đức đã huy động 3/4 quân đội Đức cùng với quân đội nhiều nước đồng minh với Đức tại châu Âu, chỉ để lại 1/4 quân số và phương tiện tại Tây Âu và Bắc Phi[74]. Trong khi đó, Hồng quân Liên Xô có 141 sư đoàn với 3,2 triệu quân đóng ở các khu vực phía Tây chống lại quân Đức. So với Hồng quân, quân Đức chiếm ưu thế cả về quân số lẫn kinh nghiệm tác chiến.

Khác với những cuộc chiến trước, kế hoạch xâm lược của Đức bao gồm cả việc tiêu diệt thường dân Nga tại các địa phương chiếm đóng. Chỉ thị ngày 12 tháng 5 năm 1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức yêu cầu sĩ quan, binh lính Đức “Hãy nhớ và thực hiện: - Không có thần kinh, không có trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức… Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai. Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng… anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh".

Chiến dịch Barbarossa được dự định sẽ đánh bại triệt để Liên Xô chỉ trong 2-3 tháng. Trong những ngày đầu của cuộc xâm lược, với ưu thế áp đảo của quân Đức, nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ thất bại còn sớm hơn thế. Khi xe tăng và quân Đức tiến sâu lãnh thổ của Liên Xô trong một cuộc tấn công gồm ba mũi đột kích, hầu hết các nhà phân tích nước ngoài bắt đầu dự đoán rằng Liên Xô sẽ thất bại chỉ sau vài tuần hoặc thậm chí vài ngày[75].

Vào ngày 3 tháng 7 năm 1941, 11 ngày sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Ivan M. Maisky, Đại sứ Liên Xô tại Anh, đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Anh Anthony Eden để thảo luận tình hình quân sự và hai nước chính thức hợp tác chống lại kẻ thù chung. Maisky khẳng định rằng tấn công Liên Xô là sai lầm lớn nhất của Hitler, và rằng “Nước Nga vĩ đại sẽ không thể bị đánh bại”[76]

Trong giai đoạn đầu, các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng do lợi thế từ yếu tố bất ngờ, ưu thế về quân số và trang bị, kinh nghiệm dày dạn của binh sĩ Đức, cộng với những yếu kém và sai lầm trong điều binh của các chỉ huy Liên Xô, quân Đức đã bắt giữ được hoặc tiêu diệt khoảng 3 triệu binh sĩ Xô Viết. Quân Đức tiến được một khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng vẫn không hoàn thành được mục tiêu. Không giống như ở Pháp, Hồng quân dù bị bao vây nhưng vẫn chiến đấu, tử thủ với quyết tâm rất cao để kìm chân đối phương khiến lực lượng Đức bị tổn thất hơn 1 triệu quân sau 5 tháng chiến đấu. Đối với Đức, thắng lợi đã không còn dễ dàng như dự đoán ban đầu của họ. Một sĩ quan Đức viết trong nhật ký: "Chúng tôi không còn cảm giác phiêu lưu khi tiến vào một quốc gia bại trận như hồi ở Pháp, thay vào đó chúng tôi gặp phải sự kháng cự,một sự kháng cự không ngừng nghỉ bất kể chuyện ấy có vô vọng đến đâu chăng nữa".

Bước ngoặt tại Moscow và Stalingrad

Tháng 10 năm 1941, Bộ chỉ huy Đức tập trung mọi sức lực để mở cuộc tấn công vào hướng Mátxcơva với hi vọng chiếm được thủ đô Mátxcơva để kết liễu Liên Xô. Với mật danh là "Bão táp", Hitler đã huy động 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng hơn 1,8 triệu quân) và gần 1000 máy bay vào trận đánh Mátxcơva. Trong nhật lệnh ngày 2 tháng 10 năm 1941, ngày mở đầu cuộc tấn công Mátxcơva, Hitler quyết định ngày 7 tháng 11 năm 1941 sẽ chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng trường, ông tin rằng ban lãnh đạo Liên Xô sẽ phải bỏ chạy khỏi Thủ đô như chính phủ Ba Lan, Pháp, Nam Tư... đã làm. Tuy nhiên, Hội đồng quốc phòng Liên Xô do Đại Nguyên soái Stalin đứng đầu vẫn ở lại Mátxcơva, trực tiếp lãnh đạo việc bảo vệ thủ đô. Trong đợt tấn công ác liệt và đẫm máu tháng 10, quân Đức tiến được từ 230 km, nhưng lực lượng bị tổn thất nghiêm trọng, kế hoạch thôn tính Mátxcơva trong giữa tháng 10 bị đổ vỡ. Ngày 15 tháng 11 năm 1941, bộ chỉ huy quân Đức lại mở đợt tấn công thứ hai vào Mátxcơva, nhưng tất cả các mũi đột phá đều lần lượt bị bẻ gẫy.

Một nhóm Quân đội Đức Quốc xã hạ vũ khí đầu hàng Quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva ngày 20 tháng 12 năm 1941

Đến tháng 12, quân Đức đã bị tiêu hao quá nhiều trong chiến đấu. Khi mùa đông đến, ưu thế về kinh nghiệm tác chiến của Đức đã mất và chuyển sang phía Hồng Quân: binh lính Liên Xô được huấn luyện kỹ năng tác chiến mùa đông (trượt tuyết, ngụy trang, giữ ấm cơ thể...) tốt hơn hẳn so với lính Đức. Khi thời cơ thích hợp đã đến, tướng Georgi Konstantinovich Zhukov phát động cuộc phản công. Dọc phòng tuyến dài 360 km trước Moskva, Liên Xô tung ra 7 tập đoàn quân và 2 quân đoàn kỵ binh – tổng cộng 100 sư đoàn với khoảng 80 vạn quân – gồm những binh sĩ còn sung sức và đã dày dạn trận mạc. Cuộc phản công của Liên Xô với những lực lượng dự bị tinh nhuệ đã đánh bật Đức ngay tại ngoại ô Moskva. Hơn nửa triệu quân Đức đã bị tổn thất trong chiến dịch tấn công thất bại vào Moscow.

Lần đầu tiên sau 6 năm chiến tranh, các đơn vị chủ lực của Đức Quốc xã phải chịu thất bại nặng. Hitler cách chức Tổng tư lệnh lục quân, tư lệnh Tập đoàn quân trung tâm, Tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng lĩnh khác. Chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" của Đức đã thất bại.

Tù binh Đức, Ý, Rumani và Hungary bị bắt trong trận Stalingrad

Tuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941, nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942. Lần này Đức tấn công vào phía Nam nhằm chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược của Liên Xô, bởi nếu không có dầu thì nền công nghiệp quân sự của Liên Xô sẽ bị tê liệt. Chiến dịch Blau được Đức phát động với 102 sư đoàn gồm hơn 2 triệu quân, gần 2.600 xe tăngpháo tự hành, được biên chế vào 6 tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary.

Hồng quân Liên Xô phản công trong trận Stalingrad, tháng 2 năm 1943

Sau 3 tháng tiến công liên tục, quân Đức tiến đến sát dãy núi Kavkaz, nhưng cũng như năm 1941, quân đội Liên Xô đã tử thủ tại Stalingrad nhằm chặn đứng đường tiến quân của Đức. Trong thời gian từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9 năm 1942, chiến sự tại Stalingrad đã diễn ra đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer (Lãnh tụ, tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường vì họ đã được lệnh giữ thành phố bằng mọi giá, bởi mất Stalingrad thì coi như mất toàn bộ miền Nam nước Nga. Cuộc chiến ở đây là đỉnh cao không khoan nhượng, cả hai bên đều gần như không chấp nhận bắt tù binh. Trận đánh đã diễn ra vô cùng khốc liệt trong toàn thành phố: từng đống đổ nát, từng con đường, từng nhà máy, công xưởng, nhà kho, từng lầu gác đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần. Các cống rãnh cũng là một chiến địa ác liệt nơi các binh sĩ quần nhau trong một mê hồn trận gồm những đường ống cống chằng chịt như mê cung. Phát xít Đức gọi kiểu chiến tranh trong thành thị (urban warfare) này là "chiến tranh chuột cống" (Rattenkrieg), nói một cách nửa đùa nửa thật rằng họ đã đánh chiếm xong nhà bếp trong khi đang phải vất vả giành giật phòng khách với quân địch. Trong một mớ bòng bong như vậy, tất cả các quy tắc của một trận đánh quy ước đều bị phá vỡ; lối tấn công quen thuộc của quân Đức - huy động một lượng lớn các binh đoàn cơ động hỗ trợ bởi tăng thiết giáp - bị thay thế bởi các trận đấu súng không kém phần ác liệt giữa các nhóm nhỏ binh sĩ giữa những đống gạch vụn ngổn ngang của những ngôi nhà, tòa công sở, tầng hầm và những tòa nhà nhiều tầng. Một số tòa nhà cao tầng - bị không quân Đức ném bom tơi tả - trở thành nơi xảy ra các trận giao chiến ác liệt kéo từ tầng này qua tầng khác: quân phát xít Đức và Hồng quân Xô Viết gần như trú đóng trong các tầng xen kẽ nhau và họ bắn nhau qua các lỗ hổng trên sàn và trần nhà.

Đến tháng 11 vào thời điểm mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đến, quân Đức tại Stalingrad đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố khi mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp ứng của mình. Tình hình quân Đức lúc này thực sự rất nguy ngập.

Khi quân Đức đã kiệt sức, Liên Xô lại tung ra đòn phản công với những đơn vị dự bị mạnh. Chiến dịch Sao Thiên Vương của Liên Xô đã huy động 3 phương diện quân với tổng binh lực lên tới 1,1 triệu quân, 1.463 xe tăng và pháo tự hành và 1.350 máy bay; đối diện là lực lượng Đức và chư hầu với hơn 1 triệu quân, 675 xe tăng và pháo tự hành, 1.216 máy bay. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng Xô viết đã chọc thủng chiến tuyến Đức, hợp vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng số 4 và toàn bộ tập đoàn quân số 6 Đức. Tổng cộng khoảng 33 vạn quân Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt và bị tiêu diệt tại Stalingrad. Các bộ phận còn lại của quân Đức vội vã tháo lui khỏi miền nam Liên Xô để tránh bị bao vây, mục tiêu của Đức là đánh chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược của Liên Xô đã phá sản.

Trận Stalingrad được coi là bước ngoặt trong thế chiến thứ 2. Binh lực phe Đức bị tiêu diệt trong trận này tới hơn 1 triệu lính, nhiều hơn bất cứ chiến dịch nào khác trong thế chiến 2. Sau trận Stalingrad, binh lực của Đức trở nên suy yếu nghiêm trọng và buộc phải chuyển từ thế tấn công sang thế phòng ngự, còn Liên Xô chuyển sang thế chủ động phản công. Trong 4 tháng 20 ngày, dù gặp những điều kiện khó khăn của mùa đông, quân đội Xô viết đã tiến sâu về phía tây khoảng 600 km trên một chiến tuyến dài gần 2000 km, đánh đuổi quân Đức ra khỏi những vùng có tầm quan trọng lớn về kinh tế và chiến lược.

Liên Xô phản công
Hồng quân Liên Xô trong một cuộc phản công vào các vị trí của Đức trong trận Vòng cung Kursk vào tháng 7 năm 1943, phía trước là xe tăng T-34

Trong mùa hè năm 1943, tại trận Vòng cung Kursk, Đức đã tung ra những đơn vị thiết giáp lớn hòng xoay chuyển tình thế, Kursk trở thành "trận đấu xe tăng lớn nhất" trong lịch sử thế giới, giữa gần 3.000 xe tăng - pháo tự hành của Đức và khoảng 5.000 xe về phía Liên Xô. Tại đây, Liên Xô tiếp tục tiêu diệt nhiều đơn vị tinh nhuệ của Đức, nhất là các đơn vị thiết giáp, khiến mục tiêu xoay chuyển tình thế của Đức bị tiêu tan.

Từ đó cho đến khi hết chiến tranh, quân Liên Xô giữ thế chủ động và phát động tấn công liên tục trên khắp các mặt trận, trong khi Đức bị đẩy vào thế bị động đối phó.

Cuối tháng 8 năm 1943, ngay sau trận Kursk, Hồng quân triển khai chiến dịch tấn công chiến lược tại cánh nam chiến trường Xô – Đức nhằm giải phóng Ukraina, đó là trận đánh sông Dnepr. Quân Đức phòng thủ tại khu vực này có 62 sư đoàn, trong đó 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới, gồm khoảng hơn 1,2 triệu quân, 13.000 pháo và súng cối, 2.100 xe tăng và pháo tự hành, 2.100 máy bay. Để chọc thủng tuyến phòng thủ sông Dnepr của Đức, Liên Xô huy động lực lượng tới 2,6 triệu quân, hơn 51.200 pháo và súng cối, 2.500 xe tăng và gần 3.000 máy bay của 5 phương diện quân. Sau 4 tháng tiến công, đến cuối tháng 12 năm 1943, Hồng quân đã giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn nửa phía đông lãnh thổ Ukraina. Đây là lần đầu tiên một chiến dịch tổng tấn công chiến lược rất lớn vào mùa hè của Hồng quân Xô Viết đã thắng lợi, nó cho thấy trình độ tác chiến mùa hè của Liên Xô đã đạt mức tương đương so với quân Đức.

Đầu năm 1944, các lực lượng vũ trang Xô viết đã vượt quân Đức 1,3 lần về quân số, 1,7 lần về máy bay (quân Đức và quân các nước chư hầu có ở mặt trận Xô - Đức gần 5 triệu quân, 57.500 pháo và cối, 5.500 xe tăng và hơn 3.000 máy bay). Chất lượng vũ khí, đặc biệt quan trọng là tinh thần chiến đấu của quân đội, nghệ thuật chỉ huy chiến dịch, chiến thuật và chiến lược của các cấp chỉ huy Liên Xô ngày càng cao. Tỉnh hình này cho phép Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô có thể triển khai cuộc tổng tấn công đồng loạt trên khắp các mặt trận từ Leningrad đến tận Crimea, mở đầu từ ngày 24 tháng 12 năm 1943.

Thiếu tá, chính trị viên Alexey Gordeyevich Eremenko, tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 220, Sư đoàn bộ binh 4 dẫn đầu đội hình xung phong của Hồng quân tại Voroshilovgrad ngày 12 tháng 6 năm 1942. Eremenko đã hy sinh chỉ vài phút sau khi bức ảnh được chụp. Bức ảnh này được coi là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít Đức
  • Ở mặt trận phía bắc, tháng 1 và 2 năm 1944, Hồng quân phản công ở Leningrad, giải vây thành phố này sau 900 ngày chiến đấu kiên cường với quân Đức, kết thúc chiến dịch bao vây kéo dài nhất trong lịch sử chiến tranh [77]. Cùng thời điểm Hồng quân tiến sát tới biên giới Estonia. Đến mùa hè năm 1944, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Baltic, đánh đuổi quân Phần Lan ra khỏi biên giới và buộc Phần Lan phải ký hiệp định đình chiến với Liên Xô ngày 19 tháng 9 năm 1944.
  • Ở mặt trận Ucraina, trong năm 1944, Hồng quân đã mở 10 chiến dịch tấn công có tính chất tiêu diệt. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra hết sức ác liệt vì phần lớn lực lượng quân Đức tập trung ở vùng này (96 sư đoàn với 70% tổng số các sư đoàn xe tăng và các sư đoàn cơ giới của Đức ở mặt trận Liên Xô). Kết quả, Hồng quân đã đánh tan 66 sư đoàn Đức và giải phóng hoàn toàn Ucraina.
  • Ở mặt trận Crimea, từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1944, quân đội Xô viết giải phóng OdessaCrimea.
  • Ở mặt trận trung tâm, chiến dịch Bagration mở ngày 23 tháng 6 năm 1944. Liên Xô huy động 4 phương diện quân với tổng binh lực 2,4 triệu quân, 36.000 pháo và súng cối, 5.000 xe tăng và pháo tự hành, 5.000 máy bay. Lực lượng phòng thủ của Đức tại đây là Cụm Tập đoàn quân Trung tâm với 34 sư đoàn với 1 triệu quân, 1.330 xe tăng và pháo tự hành, 10.090 pháo và súng cối, hơn 1.000 máy bay. Sau 2 tháng tiến công, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức, tiêu diệt hơn 30 sư đoàn Đức với hơn 500.000 quân, Belarus được hoàn toàn giải phóng. Cụm Tập đoàn quân Bắc của Đức với gần 300.000 quân cũng bị dồn vào mũi đất Courland và bị cô lập hoàn toàn. Chiến dịch Bagration đã "đập nát mặt trận trung tâm" của quân Đức, kết cục của chiến tranh gần như đã được định đoạt sau chiến dịch này.

Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giành lại được hầu hết số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và liên tục đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây. Sau chiến dịch Bagration, Quân đội Xô Viết phát động liên tiếp các đòn tấn công chiến lược để giải phóng những phần đất còn lại đang bị Đức chiếm đóng:

  • Chiến dịch Lvov–Sandomierz từ 13 tháng 7 đến 29 tháng 8 năm 1944, phương diện quân Ukraina 1 với lực lượng 2 tập đoàn quân xe tăng, 7 tập đoàn quân bộ binh (tổng cộng 1.200.000 lính, 1.979 xe tăng, 11.265 khẩu pháo) đã đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của Đức (có 900.000 quân, 800 xe tăng, 6.300 đại bác và súng cối).
  • Chiến dịch Iaşi-Chişinău từ 20 đến 29 tháng 8 năm 1944: Chỉ trong 9 ngày, hai phương diện quân Xô Viết (có tổng cộng 1.341.000 lính, 1.874 xe tăng và pháo tự hành) đã tiêu diệt cụm tập đoàn quân Nam Ukraina của liên quân Đức – Romania (có 47 sư đoàn, 5 lữ đoàn với tổng cộng 500.000 lính Đức, 405.000 quân Romania, 400 xe tăng và pháo tự hành). Trong 9 ngày, Hồng quân đã tiêu diệt 25 vạn quân địch và bắt gần 30 vạn tù binh, giải phóng hoàn toàn Moldavia, quân đội Xô Viết ào ạt kéo vào Romania làm tan rã 350.000 quân còn lại của nước này, đã loại bỏ Romania ra khỏi khối Trục.
  • Chiến dịch Baltic từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11, 1944: Là chiến dịch giải phóng phần đất cuối cùng của Liên Xô. Trong chiến dịch này, các bộ phận của 4 phương diện quân Xô viết (gồm 900.000 quân, 17.500 khẩu pháo, 3.080 xe tăng, 2.640 máy bay) đã tổng tấn công cụm tập đoàn quân Bắc của Đức (gồm 730.000 quân, 7.000 đại bác và súng cối, 1.200 xe tăng và pháo tự hành). Cụm tập đoàn quân Bắc đã bị đánh bại và bị dồn về phía biển.

Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết. Hồng quân đã mở đường vào bắc Na Uy, Hungary, Áo, khu vực BalkanTiệp Khắc, loại khỏi vòng chiến các đồng minh của Đức Quốc xã là Phần Lan, Hungary, RomâniaBulgaria (một số quốc gia về sau đã quay sang tuyên chiến với Đức). Khối phát xít của Đức sụp đổ, Liên Xô mở rộng đường tiến vào Đông Âu.

Từ ngày 12 tháng 1 đến 3 tháng 2 năm 1945, Hồng quân tổ chức chiến dịch Wisla-Oder. Hai phương diện quân Xô viết (có 2,2 triệu quân, 33.500 nghìn đại bác và súng cối; 7.000 xe tăng và pháo tự hành; 5.000 máy bay) đã tiêu diệt hầu hết các lực lượng Đức trên hướng phòng thủ WarszawaBerlin (có 450.000 quân, 5.000 đại bác và súng cối, 1.220 xe tăng và pháo tự hành, 630 máy bay), giải phóng gần hết Ba Lan và đặt sự tồn tại của Đức Quốc xã chỉ còn tính từng tuần.

Mặt trận Xô-Đức là mặt trận có quy mô lớn nhất trong thế chiến thứ 2. Đức đã tung ra 70% binh lực với các sư đoàn mạnh và tinh nhuệ nhất, cùng với khoảng 81% số đại bác, súng cối; 65% xe tăng; 60% máy bay chiến đấu, chưa kể binh lực góp thêm của các nước đồng minh của Đức (Ý, Rumani, Bulgari, Hungary, Phần Lan...) Có những thời điểm hai bên chiến tuyến đồng thời hiện diện đến 12,8 triệu quân, 163.000 khẩu pháo và súng cối, 20.000 xe tăngpháo tự hành, 18.800 máy bay. Ngay cả sau khi Mỹ, Anh mở mặt trận phía Tây, Đức vẫn sử dụng gần 2/3 binh lực để chiến đấu với Liên Xô. Các trận đánh như Trận Moscow, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai[78].

Bích cương cổ vũ lao động của Liên Xô năm 1941: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng"

Nền kinh tế Liên Xô đã có những nỗ lực sản xuất phi thường để bù đắp tổn thất và làm nên chiến thắng chung cuộc. Chỉ trong 1 năm rưỡi (từ tháng 6 năm 1941 đến hết 1942), Liên Xô đã sơ tán hơn 2.000 xí nghiệp và 25 triệu dân và sâu trong hậu phương. Các nhà máy tăng nhanh tốc độ sản xuất, năm 1942, sản lượng vũ khí đã tăng gấp 5 lần so với 1940 và đã bắt kịp Đức, tới năm 1943 thì đã cao gấp đôi Đức. Giai đoạn 1941-1945, trung bình mỗi năm Liên Xô sản xuất được 27.000 máy bay chiến đấu, 23.774 xe tăngpháo tự hành, 24.442 khẩu pháo (từ 76mm trở lên); con số này ở phía Đức là 19.700 máy bay chiến đấu, 13.600 xe tăng và pháo tự hành, 11.500 khẩu pháo. Nhờ sản lượng vũ khí khổng lồ, đến cuối chiến tranh, Liên Xô đã có trong tay một lực lượng lục quân mạnh nhất thế giới với 13 triệu người, trang bị 40.000 xe tăng và pháo tự hành và hơn 100.000 khẩu pháo các loại.

Kết quả tại mặt trận Xô-Đức, quân Đức và chư hầu đã bị tổn thất 607 sư đoàn, trong đó có 507 sư đoàn Đức tinh nhuệ, tương đương với 75% tổng số tổn thất của quân Đức trong chiến tranh. Về trang bị, Đức bị mất 75% số xe tăng, 70% số máy bay, 74% số pháo binh và 30% số tàu hải quân tại mặt trận Xô-Đức. Trong khi đó, các nước đồng minh khác (Anh, Mỹ, Úc...) trong suốt thời gian chiến tranh, trên tất cả các chiến trường đã đánh tan được 176 sư đoàn[78]

Khoảng 5,3 triệu lính Đức và chư hầu đã tử trận tại mặt trận Liên Xô, cùng với khoảng 6 triệu khác bị tan rã hoặc bị bắt làm tù binh, chiếm 75% tổng thương vong của phe phát xít trong toàn bộ Chiến tranh thế giới thứ hai. Về phía Liên Xô, Quân đội Xô Viết tổn thất 8,67 triệu binh lính trong suốt 4 năm chiến tranh (bao gồm khoảng 6,87 triệu tử trận trong chiến đấu và 1,8 triệu tù binh chết trên tổng số 3,6 triệu lính bị quân Đức bắt làm tù binh). Khoảng 400.000 quân nhảy dùdu kích cũng thiệt mạng phía sau vùng tạm chiếm của Đức.[79] Tổn thất về dân thường của Liên Xô là rất lớn do chính sách tiêu diệt người Slav của Đức, ước tính khoảng 12-18 triệu dân thường Liên Xô đã chết.

Mặt trận Bắc Phi kết thúc

Đến tháng 12 năm 1941, quân Đức thất bại trong trận đánh trước cửa ngõ Mátxcơva. Mặt trận Xô - Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc Đức cắt giảm lực lượng cho các mặt trận khác. Quân ĐứcBắc Phi bị thiếu đạn dược, nhiên liệu nên không thể tấn công tiếp được nữa.

Quân Anhmặt trận Bắc Phi trong trận El Alamein thứ hai (được dàn dựng lại để chụp ảnh)

Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng hải quân Ý ở Regia Maria khiến phía Đồng Minh có thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau trận El Alamein thứ hai, quân đoàn thứ 8 của Anh ở Bắc Phi gồm 7 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn thiết giáp và 7 lữ đoàn chiến xa đã mở cuộc tiến công. Quân Đức ít quân hơn không thể chống đỡ nổi, quân Anh chiếm gần hết toàn bộ Libya và đuổi quân Trục vào Tunisia. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao vây các lực lượng phe Trục. Ngày 8 tháng 11 năm 1942, Franco (đứng đầu chính phủ phát xít Tây Ban Nha) đã báo trước cho Đức biết về cuộc đổ bộ này, nhưng Đức không làm gì được bởi vì lúc ấy tất cả dự trữ của Đức đã được ném vào trận Stalingrad với Liên Xô.

Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia. Mặt trận Bắc Phi kết thúc với thắng lợi dành cho các lực lượng đồng minh Anh-Mỹ.

Chiến dịch Ý

Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicilia trong năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu". Cuộc tấn công vào Sicilia thành công, khiến chính quyền của Benito Mussolini sụp đổ và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Ngày 12/9/1943, Mussolini được quân Đức cứu thoát để tổ chức lại lực lượng, và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc Italia, gọi là nền "cộng hòa Salo".

Hơn 30 sư đoàn Đức được điều sang phòng ngự tại Ý. Sau cuộc đổ bộ tại Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn, lại bị quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ. Quân Đồng Minh ở hướng này không đạt được thành công đáng kể nào, họ bị quân Đức chặn đứng ở vùng núi nằm giữa nước Ý cho đến hết chiến tranh.

Mặt trận phía Tây

Sau thất bại của cuộc không chiến tại Anh Quốc, Đức bỏ ý định xâm lăng nước này, dồn nỗ lực tấn công Liên Xô đồng thời củng cố tuyến phòng thủ bức tường Đại Tây Dương - một dãy các lô cốt, tường cao, đại bác, chướng ngại vật dọc bờ biển Manche và đã sự chuẩn bị trước các cuộc tấn công từ Anh vào Pháp.

Những kế hoạch ban đầu

Năm 1941, Liên Xô đang phải một mình đối đầu với lực lượng Đức Quốc xã đang rất mạnh. Sau khi kết làm đồng minh, trong số nhiều yêu cầu, yêu cầu đầu tiên của Liên Xô là Anh mở một mặt trận thứ hai, nhằm giảm bớt sức ép của Đức đối với Hồng Quân. Nhưng vào mùa hè năm 1941, nước Anh chưa sẵn sàng tiến hành đổ bộ lên bờ biển Pháp. Lục quân Anh chưa thắng được quân Đức một trận nào dù đã tham chiến 2 năm, và thảm bại ở Pháp năm 1940 cho Anh thấy lục quân Đức mạnh hơn họ rất nhiều. Do vậy, Anh từ chối đổ quân lên Pháp và nói rằng họ đang làm hết sức mình để giúp Hồng Quân, nhưng nhiều người Anh không tin vào lời nói đó. Đại sứ Anh ở Liên Xô, Stafford Cripps đã tố cáo Chính phủ Anh đang lẩn tránh cuộc chiến tranh, đẩy Hồng Quân Liên Xô vào chỗ phải hứng chịu nhiều thương vong. Ông ta nói: công luận Liên Xô tin rằng Anh sẵn sàng “chiến đấu đến giọt máu cuối cùng của Liên Xô”.

Tháng 12 năm 1941, cục diện chiến tranh thay đổi. Hồng Quân đã thắng trận đánh chiến lược ở Moscow. Ở Anh, các quan chức giờ đã tin rằng lục quân Đức vẫn có thể bị đánh bại, và trước sức ép liên tục của Stalin, cuối cùng các quan chức này phải thảo luận hướng tới việc mở mặt trận thứ hai ở Pháp.

Tù binh AnhCanada bị bắt tại Trận Dieppe

Tuy nhiên, đầu năm 1942, quân Anh đang bị phe Trục đánh bại liên tiếp tại Mặt trận Bắc Phi, dù phe Trục mới chỉ tung vào mặt trận này 4 sư đoàn Đức và 5 sư đoàn Ý, tổng cộng là khoảng 160.000 quân. Dù đang huy động 80% binh lực (gồm 217 sư đoàn và 20 lữ đoàn, khoảng 6 triệu quân) để tấn công Liên Xô, nhưng Đức vẫn còn khoảng 40 sư đoàn (khoảng 1 triệu quân) đóng ở Tây Âu. Từ thực tế này, các tướng lĩnh Anh tính toán rằng: chỉ chống lại 160.000 quân Đức-Ý mà quân Anh đã liên tiếp thất bại, thì họ cũng sẽ không thể nào chống cự lại nổi 1 triệu quân Đức nếu đổ bộ lên Tây Âu.

Trận Dieppe vào ngày 19 tháng 8 năm 1942 đã củng cố nhận định của các tướng lĩnh Anh rằng quân của họ sẽ không thể bám trụ nổi sau khi đổ bộ lên đất đối phương. Trong trận này, 10.000 quân Anh và Canada đã chủ động mở một chiến dịch đổ bộ lên nước Pháp tại một dải bờ biển chỉ có 1.500 quân Đức trấn giữ. Cuộc tấn công bắt đầu vào lúc 5 giờ sáng, nhưng chỉ đến 9 giờ sáng cùng ngày thì quân Anh đã phải rút lui vì thiệt hại quá nặng nề mà không đạt được kết quả nào. Không quân Anh cũng thua to, mất 106 máy bay trong khi Đức chỉ mất 48 chiếc. Hải quân Anh cũng bị mất 1 khu trục hạm, 33 tàu đổ bộ.

Sau trận Dieppe, không có hành động quân sự lớn nào được Anh thực hiện tiếp. Anh chỉ tung những nhóm nhỏ quân biệt kích vào đất Pháp để đánh du kích, đồng thời khích động tinh thần của nhân dân kháng chiến tại Pháp. Tuy vậy, năm 1943, quân đội Anh-Mỹ đã liên tục giành thắng lợi trong các chiến dịch tại Bắc Phi, cũng như SicilyItaly. Những chiến dịch này đã cung cấp thêm kinh nghiệm quý báu cho quân Đồng Minh trong kế hoạch đổ bộ sau đó [80]. Thế nhưng phải tới năm 1944, khi Anh đã nhận được sự hỗ trợ lớn của Mỹ thì kế hoạch đổ quân lên Tây Âu mới được bàn thảo tiếp.

Các trận ném bom nước Đức
Chiếc máy bay B-17 Flying Fortress ném bom vào nhà máy Focke-Wulf ở Đức, ngày 9 tháng 10 năm 1943

Từ năm 1942, không quân Anh bắt đầu mở cuộc oanh tạc dai dẳng, ngày càng tăng thêm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Đức và các vùng châu Âu lân cận.[81][82] Không quân Hoa Kỳ tham gia cuộc ném bom châu Âu từ đầu năm 1943. Tuy vậy, kỹ thuật ném bom thời đó không đạt độ chính xác cao nên phần lớn các trận bom của Anh-Mỹ không đánh trúng mục tiêu (ước tính rằng chỉ có 7% số bom rơi trúng một khu vực bán kính 300 mét quanh mục tiêu), do đó thiệt hại gây ra cho nền công nghiệp Đức là khá nhỏ và có thể được sửa chữa một cách nhanh chóng. Trong khi đó, không quân và phòng không Đức kháng cự quyết liệt gây tổn thất nặng cho lực lượng máy bay ném bom Anh-Mỹ. Ví dụ như trận không kích Schweinfurt thứ hai vào ngày 14 tháng 10 năm 1943 được gọi là "ngày thứ ba đen tối".[83] Trong số 291 chiếc B-17 Flying Fortress tham gia tấn công, đã có 77 chiếc bị Đức bắn hạ, 122 chiếc khác bị hư hại. Thiệt hại trong trận này nặng tới mức không quân Anh-Mỹ phải ngừng ném bom ban ngày vào lãnh thổ Đức trong suốt hàng tháng.Chiến dịch ném bom của Anh-Mỹ đã không đạt được kết quả chiến lược: sản lượng vũ khí của Đức vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 1943 đã cao gấp đôi năm 1942 và vẫn tiếp tục tăng cho đến cuối năm 1944 (chỉ sau khi Đức bị mất mỏ dầu ở Romania vào tay Hồng quân Liên Xô thì sản lượng vũ khí của Đức mới sụt giảm). Tinh thần chiến đấu của quân đội Đức cũng không bị các trận bom làm suy giảm.[82] Tổn thất mà các trận ném bom của Anh - Mỹ gây ra cho sản xuất công nghiệp Đức được ước tính chỉ dao động trong khoảng 0,6 - 4,4% (tùy thành phố). Các chỉ huy Anh-Mỹ nhận ra nếu muốn đánh bại Đức, họ bắt buộc phải dùng lực lượng bộ binh để đổ bộ vào châu Âu.

Đồng Minh đổ bộ lên Tây Âu

Tại Hội nghị Tam cường ở Washington, D.C. vào tháng 5 năm 1943, lãnh đạo ba nước Mỹ, AnhLiên Xô đã thảo luận với nhau về việc mở Mặt trận thứ hai. Thủ tướng Anh Churchill đề xuất mở một chiến dịch tấn công vào lãnh thổ Đức từ Địa Trung Hải, nhưng Tổng thống Mỹ Roosevelt phản đối kế hoạch này, do đó nó đã không được thực thi [84].

Vào tháng 2 năm 1943, chiến thắng của Hồng Quântrận Stalingrad đã đập tan tham vọng thôn tính Liên Xô của Đức Quốc xã. Mặc dù vậy Stalin vẫn tin rằng quân đội Liên Xô sẽ bị đánh bại nếu không có sự trợ giúp của Anh và Mỹ, do đó ông đã liên tục kêu gọi mở mặt trận thứ hai [85]. Thủ tướng Anh Churchill lại cho rằng ngay cả được sự trợ giúp của Mỹ thì Anh cũng không thể có đủ lực lượng để thực hiện một chiến dịch như vậy [86]. Tổng thống Mỹ Roosevelthội nghị Tehran vào tháng 11 năm 1943 đã cam kết với Nguyên soái Stalin (Liên Xô) rằng một mặt trận thứ hai sẽ được mở. Thủ tướng Churchill tiếp tục phản đối quyết liệt do ông lo sợ việc mở một cuộc tấn công ở Tây Âu có thể dẫn đến tổn thất nặng nề cho phe Đồng Minh như đã từng xảy ra ở SommePasschendaele trong thế chiến I [87], thế nhưng ý kiến của ông đã bị bỏ ngoài tai bởi Roosevelt và việc mở mặt trận thứ hai vẫn sẽ được thực hiện. Normandy được hoạnh định trở thành địa điểm đổ bộ cho quân Đồng Minh. Bernard Montgomery của Anh và Dwight D. Eisenhower của Mỹ là hai người sẽ chỉ huy cuộc đổ bộ.

Quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển Normandie ngày 6 tháng 6 năm 1944

Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh Tây phương đồng loạt đổ bộ vào bờ biển Normandie, một vùng ở miến bắc nước Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Chiến dịch được soạn ra từ nhiều năm trước, lực lượng nòng cốt là các đơn vị Mỹ, Anh cùng một số đơn vị khác của Canada, Pháp, Ba Lan... Ước tính có 39 sư đoàn quân Đồng Minh, trong đó có 22 sư đoàn của Mỹ và 12 sư đoàn của Anh, 5 sư đoàn tới từ các quốc gia khác, tổng cộng là hơn một triệu binh lính tham gia vào chiến dịch này, khiến nó trở thành chiến dịch đổ bộ lớn bậc nhất trong lịch sử [88].

Quân Đồng minh mở đầu chiến dịch bằng việc ném bom hàng loạt từ các căn cứ không quân bên kia eo biển nước Anh cùng với sự yểm trợ của khoảng 6.500 khu trục hạm và tàu đổ bộ, cùng một lực lượng không quân rất lớn gồm 13.450 máy bay các loại.

Tây Âu, Đức chỉ bố trí 60 sư đoàn (trong khi Đức huy động 180 sư đoàn cho chiến trường Liên Xô). Ở Normandie, Đức chỉ có 9 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn thiết giáp do thống chế Erwin Rommel chỉ huy. Ở khu vực đổ bộ, lúc đầu Đức chỉ có 300 máy bay, sau tăng lên 600, tức là ít hơn đối phương 22 lần. Tuy nhiên quân Đức vẫn kháng cự rất mãnh liệt. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, ngay những giờ phút đầu tiên đã có 4.000 quân Đồng Minh tử trận. Mặc dù áp đảo về quân số và trang bị, quân Mỹ và Anh vẫn tiến rất chậm, trung bình mỗi ngày chỉ được 4 km. Mặt khác, không quân Đồng minh lúc này đã hoàn toàn làm chủ bầu trời và mạng lưới đường sắt của quân Đức đã bị phá hủy nặng nề bởi những trận bom liên tiếp của quân Đồng minh, điều này khiến cho quân Đức không thể vận chuyển quân tiếp viện tới Normandy kịp thời. Phe Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày đầu tiên, tuy nhiên họ dần giành lấy ưu thế sau khi chiếm được cảng Cherbourg vào ngày 21 tháng 6 và chiếm được Caen vào ngày 21 tháng 7. Cuộc chiến cù cưa giữa đôi bên diễn ra khá lâu, quân Đức cuối cùng cũng cạn kiệt lực lượng dự bị và phải rút khỏi miền bắc nước Pháp, nhưng quân Đồng Minh cũng thiệt hại nặng.

Bức tranh minh hoạ cảnh Quân Mỹ giải phóng Paris vào ngày 25 tháng 8 năm 1944

Khi chiến dịch này thành công, quân Đồng Minh tiến sâu vào Pháp, đẩy lui quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền Nam Pháp (chiến dịch Dragoon) cuối cùng đã giải phóng nước này. Đến ngày 25 tháng 8, quân Đồng minh tiến vào thủ đô Paris, chính phủ bù nhìn Vichy sụp đổ, Lực lượng Pháp tự do của tướng Charles De Gaulle lên nắm quyền. Trên đà chiến thắng, quân Đồng minh tiếp tục tiến quân vào giải phóng các nước Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và bao vây nước Đức từ phía tây, cùng với Liên Xô ở phía đông tạo nên thế gọng kìm đối với nước Đức. Giờ đây, Đức lại một lần nữa bị ép ở hai mặt trận Đông-Tây.

Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế tiếp. Việc này dẫn đến sự ra đời của chiến dịch Market Garden, mục tiêu là sử dụng không quân thả lính dù vào sâu lãnh thổ nước Đức nhằm đánh chiếm trước các vị trí chiến lược như cầu, kho bãi, v.v. kết hợp với lực lượng xe tăng thọc sâu để tạo nên đòn quyết định kết thúc chiến tranh. Market Garden trở thành chiến dịch đổ bộ bằng không quân lớn nhất lịch sử với hơn hàng ngàn máy bay tham gia. Quân Đồng Minh cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944. Nhưng chiến dịch này đã bị thất bại và lực lượng Đồng Minh đã tiến vào Đức chậm hơn so với Liên Xô.

Ước tính có khoảng 780.000 quân Đồng Minh bị thương vong trong những chiến dịch tiếp theo trận Normandie cho tới khi nước Đức đầu hàng. Tổn thất của phía Đức ở mặt trận này là khoảng 750.000 lính, cộng thêm khoảng 200.000 lính khác bị bắt.

Phe Trục thua cuộc tại châu Âu

Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh Tây phương đang tiến vào biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp quân sự sụt giảm nghiêm trọng.

Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với các nước Hà Lan, BỉLuxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông để chia cắt các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ, với tham vọng bắt được một lượng lớn tù binh đủ để buộc Mỹ, Anh phải chấp nhận đàm phán hòa bình. Trong trận Ardennes, quân Đức tấn công bất ngờ khiến phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong. Quân Đức bắt được vài ngàn tù binh và tiến sâu hàng chục km, nhưng Đức không đủ lực lượng để chọc thủng hoàn toàn phòng tuyến và cuối cùng bị quân Đồng Minh đẩy lùi.

Sau thất bại ở Ardennes, quân Đức không còn hy vọng lật ngược tình thế. Mục tiêu của Đức hiện giờ là cố gắng phòng thủ càng lâu càng tốt ở mặt trận phía Đông, trong khi thả lỏng mặt trận phía Tây cho quân Anh-Mỹ tiến càng nhanh càng tốt. Do học thuyết Quốc xã mang tư tưởng "không đội trời chung" với chủ nghĩa cộng sản, nên các lãnh đạo Đức Quốc xã thà đầu hàng trong tay Anh-Mỹ còn hơn là phải đầu hàng trong tay Liên Xô.

Người lính Hồng quân Meliton Kantaria cắm cờ Xô Viết trên tòa nhà Quốc hội Đức, đánh dấu chiến thắng của Liên Xô trong thế chiến thứ hai

Tại miền đông, Đức dành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ thủ đô. Ngày 16/4/1945, Liên Xô mở chiến dịch Berlin, tấn công vào trung tâm của Đức Quốc xã. Trên đường vào Berlin, Đức đã bố trí hơn 90 sư đoàn (trong đó có 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới) với quân số gần 1 triệu người, 10.000 đại bác và súng cối, 1.520 xe tăng và pháo tự hành, 2.300 máy bay chiến đấu. Để tiến hành chiến dịch đánh chiếm Berlin, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã huy động lực lượng của 3 phương diện quân (gồm tổng động 2,5 triệu quân, 41.600 súng cối và đại bác, 3.255 dàn pháo phản lực Kachiusa, 6.300 xe tăng và pháo tự hành, 7.800 máy bay).

5 giờ sáng 16/4/1945, sau 30 phút cho pháo bắn cực mạnh và máy bay oanh tạc dữ dội vào trận địa phòng ngự của quân Đức, Hồng quân Liên Xô mở màn chiến dịch công phá Berlin. Để phòng thủ Berlin, Đức bố trí 41 sư đoàn bộ binh, 5 sư đoàn xe tăng và 12 sư đoàn cơ giới cùng rất nhiều các đơn vị độc lập khác tổng cộng gần 1 triệu quân; 10.400 đại bác và súng cối; 1.500 xe tăng và pháo tự hành; 3.300 máy bay chiến đấu. Sau 1 tuần, Hồng quân đánh tan các tuyến phòng thủ ngoại vi và bắt đầu tấn công vào nội đô Berlin. Sau 1 tuần chiến đấu trong nội đô Berlin, Liên Xô đã chiếm được trụ sở quốc hội Đức vào ngày 30/4/1945, còn Hitler đã tự sát trong hầm trú ẩn. 15 giờ ngày 30/4, cờ đỏ Liên Xô đã được cắm trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức. Ngày 2/5, Hồng quân chiếm toàn thành phố Béclin. Khoảng 400.000 lính Đức đã chết hoặc bị thương trong trận đánh cuối cùng, 480.000 quân khác bị bắt làm tù binh, trong khi Liên Xô tổn thất 81.000 người chết và hơn 200.000 bị thương.

Sau khi Berlin thất thủ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Vào ngày 9 tháng 5 năm 1945, số quân Đức còn lại ở Berlin là hơn 400.000 người (không kể số bị thương) đã đầu hàng vô điều kiện. Đây được coi là ngày chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cũng là ngày chiến thắng chung của khối Đồng Minh tại châu Âu.

Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương

Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều. Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo hoặc vùng đất mà Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu vực Tây Thái Bình DươngĐông Á, cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy ra nhiều hơn ở châu Âu, trong khi các trận đánh trên đất liền lại có quy mô nhỏ hơn nhiều.

Sự bành trướng của Nhật Bản

Quân đội Trung Hoa Dân Quốc trong trận đánh phòng thủ Thượng Hải năm 1937 trong chiến tranh Trung-Nhật

Chiến tranh Trung-Nhật đã diễn ra tại Đông Á trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc (ngày 7 tháng 7 năm 1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai, thì ngày 7 tháng 12 năm 1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc lực lượng của Hạm đội Liên Hợp Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Philippines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.

Trân châu cảng bị Không quân Hải quân Đế quốc Nhật Bản oanh tạc từ góc nhìn của một máy bay Nhật

Trận tập kích Trân Châu Cảng của Nhật đã thu được thắng lợi lớn, khiến hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ bị tê liệt trong nhiều tháng. Qua 2 đợt tấn công của hơn 350 máy bay Nhật Bản kéo dài trong gần 2 giờ đồng hồ, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ bị đánh chìm 5 thiết giáp hạm (5 thiết giáp hạm khác bị hư hại), 3 tàu tuần dương bị hư hại, 2 tàu khu trục bị đánh chìm (một tàu khu trục khác bị hư hại).[89] Số máy bay Mỹ bị phá hủy là 188 chiếc và 128 chiếc khác bị hư hại. Số lính Mỹ bị giết là 2.403 người. Để đạt được thành quả rất lớn ấy, Nhật Bản chỉ phải mất 29 máy bay và 5 tàu ngầm mini.

12 giờ 30 phút ngày 8 tháng 12, tổng thống Roosevelt đã đọc Tuyên cáo chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài diễn văn như sau: "Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã – Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất ngờ và không tuyên chiến…."[90]

Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của Nhật Bản trong các cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn đến chiến tranh, tổng thống Roosevelt tuyên bố:

Tôi yêu cầu lưỡng viện của quốc hội Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản, kể từ ngày chủ nhật hôm qua[90]."

Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản[91] và một ngày sau đến lượt Hà Lan.[92] Tiếp đó, nước Pháp Tự do, New Zealand, Canada,… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật.[93] Ngày 9 tháng 12, chính phủ Trung Quốc giờ mới chính thức tuyên chiến với Nhật.

Roosevelt ký bản tuyên chiến với Nhật Bản, tháng 12 năm 1941

Tin chiến tranh giữa Nhật và Hoa Kỳ bùng nổ bay đến Berlin một cách đột ngột trong lúc Đức Quốc xã đang tập trung mọi sự chú ý vào mặt trận phía đông, nơi Hồng quân Liên Xô đã phản công mãnh liệt đẩy lùi quân Đức trước Moskva. Hitler triệu tập Quốc hội vào ngày 11 tháng 12 và chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cùng trong ngày hôm ấy, Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ và Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Phạm vi của Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở rộng và tạo nên một cuộc chiến tranh quy mô toàn thế giới.

Sau khi tấn công Trân Châu Cảng, Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp ước hòa bình với những điều kiện có lợi cho Nhật. Vào cuối tháng 4 - đầu tháng 5 năm 1942, quân đội Nhật Bản cùng với nước chư hầu của họ là Thái Lan đã tràn vào Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn Hà Lan, Singapore, Hồng Kông, Philippines[94] và giành thắng lợi nhanh chóng tại đây, đồng thời lật đổ chính quyền thực dân của các nước đồng minh Phương Tây. Tại Philippines, Tướng Mỹ Douglas MacArthur bị buộc phải sơ tán khỏi thủ đô Manila và phải rút chạy ra đảo Corregidor. Riêng tại trận Singapore, Nhật chiến thắng và bắt giữ gần 100.000 lính Anh, đây là trận thua có số lính bị bắt làm tù binh lớn nhất trong lịch sử nước Anh.

Bản đồ tiến quân của Nhật Bản đến giữa năm 1942

Các lực lượng hải quân Nhật Bản cũng đã giành được chiến thắng tại biển Đông, biển JavaẤn Độ Dương[95], và không quân Nhật đánh bom căn cứ hải quân Đồng Minh tại Darwin, Australia. Chỉ có một chiến dịch của đồng minh giành thắng lợi trước Nhật Bản là chiến thắng của Trung Quốc tại Trường Sa[96]. Suốt 5 tháng kể từ ngày nổ ra cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, quân đội Nhật Bản đã đánh chiếm được tất cả các thuộc địa của Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan ở vùng Đông Nam Á và một số hòn đảo quan trọng trên Thái Bình Dương mà không vấp phải sự kháng cự đáng kể nào.[97] Toàn bộ vùng Nhật Bản chiếm được rộng 3,8 triệu km² với 150 triệu dân. Còn nếu tính cả các vùng chiếm được ở Trung Quốc thì diện tích lên đến 7 triệu km² với số dân khoảng 500 triệu người. Nhật Bản giờ đây đã nắm trong tay những nguyên liệu chiến lược mà họ rất cần - dầu hỏa, cao su, thiếc, tungsten, crôm, mangan và lúa gạo - ngoại trừ sắt.[98]. Thắng lợi của Nhật Bản trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương phần lớn là do không quân và hải quân, bởi vì Nhật chỉ điều động khoảng 11 sư đoàn lục quân (khoảng 200.000 người) để tấn công Philippines, Mã Lai, Miến ĐiệnNam Dương trong khi 70% lục quân Nhật (khoảng 37 sư đoàn) còn đang ở Trung Hoa đại lục.[99] Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quân Nhật thắng lớn trong giai đoạn đầu là do sự mất cảnh giác, không chuẩn bị đầy đủ và thiếu kiên quyết của phía Mỹ, Anh chống lại cuộc tấn công của quân Nhật.[100] Sự thất bại của những người da trắng ở châu Á còn làm tổn hại uy thế của họ một cách trầm trọng.[98]

Lãnh thổ Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Đầu tháng 5 năm 1942, "Chiến dịch MO" do phó đô đốc Shigeyoshi Inoue chỉ huy bắt đầu được thực hiện nhằm đánh chiếm cảng Moresby tại New Guinea. Nếu chiếm được cảng này, Nhật Bản sẽ kiểm soát được vùng biển phía bắc nước Úc và đặt nước này vào tình thế nguy hiểm[101]. Tuy nhiên, không may cho người Nhật, người Mỹ đã giải mã được các mật mã của hải quân Nhật, và các lực lượng hải quân Mỹ-Úc được điều động tới vùng biển Coral để ngăn chặn bước tiến của quân Nhật. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 5, trận chiến vùng biển Coral xảy ra giữa 2 phe. Kết thúc trận hải chiến, Nhật Bản giành thắng lợi về chiến thuật nhưng về mặt chiến lược, họ đã thất bại trong nỗ lực đổ bộ lên phía nam New Guinea. Lần đầu tiên kể từ trận Trân Châu cảng, một cuộc tấn công của Nhật Bản đã bị đánh bại.[102] Với kết quả đó, Đồng Minh đã phần nào lấy lại thế chủ động và tình hình chiến lược Thái Bình Dương bắt đầu có sự đổi chiều bất lợi cho người Nhật.

Sáu tháng sau khi tuyên chiến, tháng 6 năm 1942, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau một trận lớn giữa Thái Bình Dương tại Midway. Kết quả sau trận đánh, quân Nhật thất bại nặng nề: 4 hàng không mẫu hạm, 1 tuần dương hạm bị đánh chìm, cộng thêm 330 máy bay. Phía Mỹ chỉ mất 1 hàng không mẫu hạm, 1 khu trục hạm và 147 máy bay. Qua trận đánh này, không chỉ mất đi sức mạnh hàng không mẫu hạm, người Nhật còn mất rất nhiều những phi công hải quân được huấn luyện tốt nhất. Đây cũng là trận đánh đánh dấu lần thất bại đầu tiên của hải quân Nhật trong lịch sử cận đại. Trận Midway do đó được xem là bước ngoặt của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.

Trong khi đó, quần đảo Solomon bị người Nhật chiếm lấy vào tháng 4 năm 1942 nhưng vì ít quân nên Nhật chỉ chiếm một số đảo. Còn hải quân Nhật thì đóng tại Rabaul, nằm trên đảo New Britain. Sau đó, quân Nhật chọn đảo Guadalcanal, nằm ở đông nam Solomon làm căn cứ tiền phương và xây dựng sân bay ở phía bắc đảo. Ngày 7 tháng 8, chiến dịch phản công trên bộ đầu tiên của quân Đồng Minh ở vùng biển Tây Nam Thái Bình Dương bắt đầu khi Hoa Kỳ tung Sư đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến của họ với quân số khoảng 17.000 quân vào cuộc chiến ở quần đảo Solomon trong đó có 11.000 quân đổ bộ lên đảo Guadalcanal [103]. Hải quân Mỹ không ngừng đổ bộ thêm quân tăng viện lên đảo và đến tháng 1 năm 1943, số quân Mỹ có mặt trên đảo đã lên đến hơn 50.000 người. Trong khi đó, để tăng viện cho lực lượng bộ binh đang giao tranh, quân Nhật đã tổ chức các đoàn chuyển vận mà quân Đồng Minh gọi là "Tokyo Express", dẫn đến những cuộc hải chiến vào ban đêm với hải quân Đồng Minh. Tổng cộng đã có 6 trận hải chiến lớn diễn ra và kết thúc vào tháng 12 khi hải quân Nhật thất bại trong trận hải chiến Guadalcanal, đồng nghĩa với nỗ lực chuyển quân cuối cùng của người Nhật cũng thất bại.

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đang hành quân trên đảo Guadalcanal, năm 1942

Ngày 31 tháng 12, trong Hội nghị ngự tiền, Bộ tư lệnh Nhật Bản đã quyết định lệnh rút lui khỏi Guadalcanal. Từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1943, 10.630 lính Nhật đã thực hiện cuộc rút lui khỏi đảo. Ngày 9 tháng 2, Hoa Kỳ tuyên bố kết thúc chiến sự tại đây. chiến cuộc giành giật đảo Guadalcanal đã chấm dứt với thảm bại của quân đội Nhật. 24.000 lính Nhật chết từ đầu chiến dịch cho đến lúc rút quân, trong khi Hoa Kỳ có 7.100 người chết, hàng vạn người bị thương hoặc bị ốm đau do bệnh sốt rét và các hiểm họa khác trong rừng nhiệt đới[104]. Sau trận đánh này, gió hoàn toàn đã xoay chiều, Đồng Minh bước vào giai đoạn phản công ồ ạt.[105]

Với ưu thế là nền công nghiệp và nguồn tài nguyên có quy mô lớn hơn nhiều so với Nhật, hải quân Mỹ dần khôi phục và có số lượng tàu chiến áp đảo hải quân Nhật. Nhật tiếp tục tìm cách trả đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.

Nhật Bản thua cuộc

Tưởng Giới Thạch, Franklin D. Roosevelt, và Winston Churchill tại Hội nghị Cairo, ngày 25 tháng 11 năm 1943

Sau chiến dịch Guadalcanal, quân Đồng minh bắt đầu phản công nhằm đoạt lại những vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng trước đây. Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không bị chiếm. Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay để quân đội có thể tiến tới. Tháng 5 năm 1943, các lực lượng Canada và Mỹ đẩy lùi quân Nhật khỏi quần đảo Aleutian.[106] Ngay sau đó, quân đội Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ từ lực lượng các nước ÚcNew Zealand, bắt đầu thực hiện hiện kế hoạch cô lập căn cứ của Nhật tại Rabaul bằng cách đánh chiếm các hòn đảo lân cận, và phá vỡ vành đai phòng thủ Thái Bình Dương của Nhật Bản tại quần đảo GilbertMarshall. Vào cuối tháng 3 năm 1944, quân Đồng minh đã hoàn thành cả hai mục tiêu này, vô hiệu hóa căn cứ chính của Nhật Bản tại Truk ở quần đảo Caroline.

Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhật Bản, trên đảo New Guinea, Nhật đã bị quân lực Úc chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này. Trong khi New Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Úc sợ sau khi Nhật chiếm giữ đảo này, Úc sẽ bị đe dọa. Vào tháng 4, quân Đồng minh đã thực hiện một chiến dịch chiếm lại New Guinea.

Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki Nhật Bản tạo thành vào năm 1945

Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân lực Anh, trong đó có rất nhiều đơn vị người Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.

Tại mặt trận Trung Quốc, các bên Quốc-Cộng đồng loạt mở các chiến dịch tiến công quân Nhật từ đông sang tây. Các tướng Lâm Bưu, La Vinh Hoàn, Diệp Kiếm Anh, Trần Nghị,... và đặc biệt là Nguyên soái Chu Đức ở bên Cộng sản đảng, và Tưởng Giới Thạch, Trương Tự Trung và Tưởng Trung Chính ở bên Quốc dân đảng đã cùng chiến đấu, ép cho quân Nhật dần bị tiêu hao trên lãnh thổ Trung Quốc, đẩy Nhật vào thế lúng túng, tứ phương gặp địch (1942-1944).

Ở Thái Bình Dương, vào giữa tháng 6 năm 1944, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm lại MarianaPalau từ tay Nhật với chiến thuật "nhảy cừu", đồng thời đánh bại hải quân Nhật trong trận chiến trên Biển Philippines. Cuối tháng 10, lực lượng Hoa Kỳ đánh chiếm hòn đảo Leyte của Philippines; ngay sau đó, lực lượng hải quân Đồng Minh giành được một chiến thắng lớn khác trước lực lượng của Nhật Bản trong Trận hải chiến Vịnh Leyte, trận đánh trên biển lớn nhất trong lịch sử nhân loại.[107].

Đến tháng 4 năm 1945, quân Mỹ mới làm chủ hoàn toàn Leyte. Trước đó, quân Mỹ đã đổ bộ lên Luzon vào tháng 1 và giải phóng thủ đô của PhilippinesManila vào tháng 3. Tháng 5 năm 1945, quân đội Úc đổ bộ vào Borneo và đánh chiếm các mỏ dầu của Nhật tại đây. Liên quân Anh, MỹTrung Quốc đánh tan quân Nhật ở miền Bắc Miến Điện vào tháng 3, và người Anh chiếm được Rangoon vào ngày 3 tháng 5.[108] Các lực lượng Trung Quốc cũng bắt đầu phản công trong Trận Tây Hồ diễn ra từ ngày 6 tháng 4 đến ngày 7 tháng 6 năm 1945.

Đến gần cuối chiến tranh, hải quân Mỹ đã làm chủ tình hình, hải quân Nhật gần như đã mất hết lực lượng. Mỹ dần đánh chiếm các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu quả vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và lực lượng phòng không Nhật ít có khả năng đối phó với mối đe dọa này. Trong trận đánh bom của không quân Mỹ tiến hành vào đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945 ở Tokyo, đã có 85.000 người thiệt mạng, nhiều hơn so với bất kỳ cuộc không kích nào khác trong Thế chiến II. Việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất các tuyến hàng hải đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết của Nhật. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật không thể sản xuất vũ khí bằng mức có thể duy trì được thế cầm cự vào lúc chiến tranh sắp chấm dứt. Lực lượng hải quân và lực lượng đổ bộ của Mỹ dần dần tiến sát đến lãnh thổ Nhật Bản, đánh chiếm Iwo Jima vào tháng 3 và Okinawa vào cuối tháng 6. Trong trận chiến trên đảo Okinawa, Nhật Bản bị tổn thất hơn 90.000 quân, chưa kể hơn 150.000 dân đảo Okinawa chết vì nhiều nguyên nhân, 6 chiến hạm và 1.430 máy bay. Phía Mỹ tổn thất 20.195 lính chết (bao gồm 12.520 chết tại trận, gần 7.800 chết tại bệnh viện vì bị thương hoặc bị bệnh), 55.162 người bị thương, 763 máy bay bị rơi, 36 chiến hạm chìm và 22 chiến hạm bị hư hại.[109] Trận Okinawa được coi là trận đánh đẫm máu nhất của chiến tranh Thái Bình Dương.[110]

Quân Đồng Minh lên kế hoạch đổ bộ vào Nhật (chiến dịch Downfall), nhưng sự phát triển bom nguyên tử làm thay đổi tình hình. Ngày 69 tháng 8, hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống HiroshimaNagasaki, chỉ trong chớp mắt 2 trái bom này đã giết chết hơn 200.000 thường dân.

Bản đồ chiến dịch Mãn Châu của Hồng quân Liên Xô

Theo cam kết với các nước Đồng Minh, Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật. Ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Sáng ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô huy động 1,5 triệu quân (3 phương diện quân), 5.500 xe tăng, 3.900 máy bay, 2.600 pháo và súng cối, cùng 25 tàu của hạm đội Thái Bình Dương, đã mở cuộc tấn công vào đạo quân Quan Đông của Nhật Bản (gồm 714.000 quân chủ lực Nhật và hơn 214.000 quân chư hầu của Nhật là Mãn Châu Quốc, Mông Cương) đóng trải ra trên một trận tuyến kéo dài hơn 4.500 km từ Bắc Triều Tiên, Đông – Bắc Trung Quốc tới Nam đảo Sakhalin và quần đảo Curin. Trong vòng 1 tuần, Hồng quân đã gần như đánh tan đội quân này, bắt gần 600.000 tù binh và chiếm gần hết Mãn Châu. Kho quân giới và nguồn cung cấp tài nguyên lớn nhất còn lại của Nhật đã bị chiếm.

Ngay trong ngày 9 tháng 8, trong cuộc họp Hội đồng Chiến tranh Tối cao khai mạc lúc 10:30, thủ tướng Kantaro Suzuki đánh giá rằng "Việc Liên Xô tham chiến sáng hôm nay đã đưa chúng ta vào một tình thế hoàn toàn không có lối thoát, khiến cho chúng ta không thể tiếp tục chiến tranh được nữa"[111] Để đưa ra quyết định cuối cùng, thủ tướng Suzuki đề nghị vào cung xin Thiên hoàng đưa ra "thiên đoán" (聖断, seidan, có nghĩa là "quyết định thiêng liêng"). Ngày 10 tháng 8, sau khi nghe tin về cuộc tấn công Mãn Châu của Liên Xô và ý kiến của Hội đồng tối cao, Thiên hoàng Chiêu Hòa đưa ra lời phán:

Trẫm đã nghĩ kĩ rồi. Người Nga đã tham chiến. Nhật Bản đang lâm vào tình thế "lưỡng đầu thụ địch" cả hai mặt đều bị tiến công. Chỉ còn một giải pháp do thủ tướng Suzuki đề xuất (đầu hàng) mới có thể tìm được lối thoát.[112]

Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Trong bài phát biểu được truyền trên sóng phát thanh tới toàn thể dân Nhật, ông nói rằng "Chúng ta đã ra lệnh cho Chính phủ của chúng ta liên hệ với Chính phủ Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô rằng Đế chế của chúng ta chấp nhận các điều khoản trong Tuyên bố chung của họ (tuyên bố Postdam buộc Nhật đầu hàng vô điều kiện)... Nhưng bây giờ cuộc chiến đã kéo dài gần bốn năm. Mặc dù những nỗ lực cao nhất đã được thực hiện bởi tất cả mọi người - những chiến sĩ dũng cảm của các lực lượng lục quân và hải quân, sự siêng năng và kiên trì của các viên chức Nhà nước, và sự cống hiến của 100 triệu người dân của chúng ta - tình hình chiến tranh đã phát triển không thuận lợi Nhật Bản, trong khi tình hình chung trên thế giới đã quay lưng lại với lợi ích của đất nước ta. Hơn nữa, đối phương bây giờ đã có một loại vũ khí mới và khủng khiếp với sức mạnh để tiêu diệt nhiều sinh mạng vô tội và làm thiệt hại khôn lường. Nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu, không chỉ nó sẽ dẫn đến kết quả là một sự sụp đổ cuối cùng và xóa bỏ quốc gia Nhật Bản mà còn có thể dẫn đến sự diệt vong hoàn toàn nền văn minh nhân loại...'[113]

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện, sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan). Tuy nhiên di chứng của hai vụ ném bom nguyên tử thì cho đến 70 năm sau, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai http://www.wwii.ca/ http://www.e-lir.ch/e-LIR___Lexicon.1129.450.0.htm... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F008927.php http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Co... //www.amazon.com/dp/B00005W210 http://artukraine.com/old/famineart/SovietCrimes.p... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813 http://www.britannica.com/eb/article-5721 http://www.cassino2000.com/cdsc/studi/archivio/n07... http://www.cnn.com/WORLD/9609/23/rare.photos/index...